Khua mái chèo khuya
Sòng sọc con nước đong đầy đêm trăng mười tám
Bên rặng ô rô loay hoay chống mái dầm vô cảm
Chệnh choạng đùn đẩy chiếc xuồng
Bỏ lại sau lưng nỗi đau…
Đêm về sáng, chập chờn trong giấc ngủ miên man
Ru tâm thức bên bờ mộng mị
Ta đã thấy gì ngoài ánh mắt, bờ môi
Của đồng đội không một ngày trở lại!
Vốc nắm cát cõi trần ai vung, vò tê tái
Mặc trầm luân dâu bể ngày xưa có ai còn nhớ
Kiếp luân phiên của sớm, tối đi về;
Chợt tỉnh lại chìm trong u uất, u hờn
Thắp vội nén nhang từ tạ.
Bước nhanh về khoảnh khắc năm xưa
Thuở một thời cùng đội bom, lửa đạn
Bì bõm trong hào vung bùn nhão nhoẹt
Rặng dừa nước nhẻm đen mùi thuốc súng
Chia cho nhau vốc nước, nắm cơm khô khốc
Nhai từng đọt rau tịnh (1) đắng chờ qua cơn đói
Lau máu cho em, người lại lau máu cho mình
Rồi băng lại
Bằng chiếc khăn rằn đẫm nước phèn mùa hạ.
Ai đã đi qua – ai trở về nhớ một thời gian khó
Hứng chịu pháo Liên Trường, Thành Tuy Hạ (2)
Vượt sông Đồng Nai giữa bủa vây của bầy sói
Đưa sự sống hồi sinh vào buổi ban mai;
Xót thương kiếp đời, không ngày về với MẸ
Phủ phục vào lòng cho mẹ xoa mái tóc vàng hoe
Hốc mắt trũng sâu, nhìn di ảnh con vô thức
Giọt nước mắt khô đọng quánh thành nếp nhăn trên má..
Rồi đêm nay, như bao đêm
Ta cùng đẩy chiếc xuồng ba lá
Len lỏi qua đồn, nghe vết cắt của từng lá tứa gai
Giẫm trên lá khô, dấu chân con thòi lòi lóp ngóp
Chầm chậm đếm mất, còn của từng rặng ô rô.
Đinh Giảng Hiếu
(1): Như rau kèo nèo, thân nhỏ có vị đắng mọc hoang dã trong bưng biền.
(2): Trường bộ binh Thủ Đức, căn cứ Thành Tuy Hạ – Cát Lái.